Báo cáo cập nhật thị trường 10.2025
Tăng trưởng kinh tế tiếp tục bứt tốc trong Q3/2025
TÓM TẮT
• GDP Việt Nam tăng 8.23% so với cùng kỳ trong quý 3/2025, cao hơn mức 6.9% trong quý 1 và 8.19% trong quý 2, bất chấp ảnh hưởng từ thuế quan của Mỹ và tác động từ một số cơn bão xảy ra trong quý.
• Sản xuất chế biến chế tạo, xuất khẩu và tiêu dùng nội địa tiếp tục tăng trưởng ổn định trong quý 3/2025, lần lượt +10.2%, +18.4% và +10.1% svck.
• VN-Index giảm 1.2% svtt, chấm dứt chuỗi tăng kéo dài từ tháng 5 đến tháng 8, do chịu áp lực từ thanh khoản giảm mạnh. Dù vậy, Việt Nam vẫn nằm trong nhóm thị trường ghi nhận kết quả tích cực nhất trên thế giới, với mức tăng 30% tính từ đầu năm.
GDP Việt Nam tăng 8.23% so với cùng kỳ trong quý 3/2025, cao hơn mức 6.9% trong quý 1 và 8.19% trong quý 2, bất chấp ảnh hưởng từ thuế quan của Mỹ và tác động từ một số cơn bão xảy ra trong quý. Động lực tăng trưởng chính nhờ sự cải thiện mạnh mẽ của khu vực công nghiệp & xây dựng (+9.46% svck) và dịch vụ (+8.56% svck). Nhờ đó, GDP 9 tháng đầu năm đạt 7.85% svck, bám sát với kịch bản cơ sở 8% mà Chính phủ đề ra. Về sử dụng GDP, tích lũy tài sản tăng 8.97% svck và tiêu dùng cuối cùng tăng 7.79% svck trong quý. Với triển vọng sản xuất chế biến chế tạo duy trì tích cực, đầu tư mạnh mẽ và tiêu dùng tiếp tục phục hồi, chúng tôi giữ quan điểm lạc quan cho tăng trưởng kinh tế trong Q4/2025.
Ngành sản xuất chế biến chế tạo tăng tốc, với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 10% svck trong quý 3 và 9.1% svck trong 9 tháng đầu năm 2025, chủ yếu nhờ sản xuất chế biến chế tạo giữ vững đà tăng trưởng (+10.4% svck so với 9.6% svck năm 2024). Hoạt động sản xuất tăng tốc nhờ xuất khẩu bứt phá hai chữ số (+18.4% svck trong quý 3 và riêng tháng 9 đạt +24.7% svck), bất chấp rào cản thuế quan từ Mỹ. Xuất khẩu điện tử và máy móc là hai động lực chính, tăng lần lượt +50.1% và +17.1% YoY trong quý. Cán cân thương mại đạt thặng dư 2.8 tỷ USD trong tháng 9, nâng mức lũy kế 9 tháng lên 16.8 tỷ USD. Chỉ số PMI sản xuất duy trì ở mức 50.4 điểm trong tháng 9, không đổi so với tháng 8 nhưng vẫn trên ngưỡng 50 trong ba tháng liên tiếp, cho thấy điều kiện kinh doanh cải thiện, đơn hàng mới hồi phục và dòng xuất khẩu ổn định hơn. Vốn FDI giải ngân cũng là điểm sáng, đạt 18.8 tỷ USD (+8.5% svck), mức cao nhất trong 5 năm.

Tiêu dùng trong nước duy trì đà phục hồi tích cực trong tháng 9, với tổng mức bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng tăng 11.3% svck, đưa tăng trưởng quý 3 lên +10.1% svck (so với +9% svck trong quý 2). Lũy kế 9 tháng, tổng mức bán lẻ tăng 9.5% svck, tiến sát mức tăng trưởng 10-12% trước COVID. Một số cơn bão trong nước có thể đã ảnh hưởng tiêu cực đến chi tiêu trong tháng 9, song chúng tôi tin rằng sự phục hồi trong sản xuất, thương mại và đầu tư sẽ tạo thu nhập cao hơn cho hộ gia đình, từ đó thúc đẩy tiêu dùng mạnh hơn.
Lạm phát tháng 9 tăng 0.42% svtt, chủ yếu do học phí dịch vụ giáo dục ngoài công lập (+2.22% svtt), giá thực phẩm (+0.41% svtt) và vật liệu xây dựng & sửa chữa nhà ở (+0.41% svtt). CPI bình quân 9 tháng đạt 3.27% svck, trong khi riêng trong tháng 9 ở mức 3.38% svck, vẫn nằm trong mục tiêu kiểm soát 4.0%-4.5% của Chính phủ cho năm 2025. Lạm phát cơ bản duy trì ổn định ở mức 3.19% svck trong 9 tháng.
Đồng VND tiếp tục giảm 0.3% svtt so với USD trong tháng 9, sau khi Fed giảm lãi suất 25 điểm cơ bản lần đầu trong năm – đúng như kỳ vọng thị trường. Tính từ đầu năm, USDVND đã tăng 3.7%, kho bạc Nhà nước cũng đăng ký mua thêm 200 triệu USD trong tháng 9, phản ánh nhu cầu USD còn cao. Áp lực giảm giá VND được kỳ vọng hạ nhiệt vào cuối năm nhờ: (i) Fed có khả năng tiếp tục nới lỏng thêm 50 điểm cơ bản, (ii) thị trường vàng được quản lý chặt hơn, và (iii) dòng vốn ngoại kỳ vọng cải thiện khi Việt Nam được nâng hạng thị trường. Về thanh khoản, NHNN bơm ròng 3.4 nghìn tỷ đồng trong tháng 9, đưa tổng thanh khoản hệ thống ở mức xấp xỉ 185 nghìn tỷ đồng, gần như không đổi so với tháng 8. Lãi suất qua đêm liên ngân hàng bình quân quanh 4.2%, cho thấy thanh khoản cải thiện, không còn hiện tượng căng thẳng như cuối tháng 6-7. Lãi suất huy động nhìn chung ổn định, nhưng một số ngân hàng thương mại bắt đầu nâng lãi suất một số kỳ hạn và nhóm khách hàng để đẩy mạnh huy động, phục vụ tăng trưởng tín dụng trong quý 4.
VNIndex giảm 1.2% svtt trong tháng 9, chấm dứt chuỗi tăng từ tháng 5 đến tháng 8. Thanh khoản bình quân giảm còn 1.3 tỷ USD/ngày (-31.3% svtt, nhưng vẫn +112% svck), so với mức kỷ lục của tháng 8. Khối ngoại bán ròng 1 tỷ USD trong tháng 9, tập trung vào nhóm Tài chính, Bất động sản, Nguyên vật liệu. Các mã bị bán ròng nhiều nhất gồm VHM (-92,6 triệu USD), SSI (-90,6 triệu USD) và MWG (-60,9 triệu USD). Ngược lại, khối ngoại mua ròng HVN (+19,2 triệu USD), VNM (+18,4 triệu USD) và GEX (+14,2 triệu USD). Lũy kế từ đầu năm, khối ngoại bán ròng 3.9 tỷ USD (so với 3.5 tỷ USD năm 2024), chủ yếu do: (i) áp lực chốt lời khi chỉ số tiệm cận 1700 điểm, (ii) áp lực tỷ giá, (iii) tâm lý chờ đợi kết quả nâng hạng của FTSE, và (iv) nhu cầu vốn cho IPO và phát hành mới.
Theo nhóm ngành, đa số giảm điểm ngoại trừ Bất động sản (+11.9% svtt), Y tế (+1.5% svtt) và Công nghiệp (+1.3% svtt). Trong nhóm Bất động sản, diễn biến phân hóa mạnh: VIC (+36% svtt) dẫn dắt thị trường, trong khi nhiều mã khác đi ngang hoặc suy yếu. Ngược lại, Tài chính (-6.7% svtt) và Công nghệ thông tin (-7.6% svtt) là hai nhóm giảm mạnh nhất. Ngân hàng và chứng khoán chịu áp lực chốt lời sau giai đoạn tăng nóng, trong khi nhóm Công nghệ bị tác động tiêu cực bởi việc Mỹ tăng phí visa H-1B dưới chính quyền Trump, cùng với xu hướng cạnh tranh toàn cầu trong lĩnh vực AI.
Định giá vẫn hấp dẫn. VNIndex hiện giao dịch ở mức P/E trailing 16 lần, thấp hơn mức bình quân 5 năm (17 lần). P/E forward ước đạt 13.1 lần (2025) và 11.3 lần (2026), trong bối cảnh EPS dự phóng 2026 tăng trưởng 15% svck. Sau biến động tháng 9, chúng tôi kỳ vọng thị trường sẽ tích lũy trong đầu tháng 10 trước khi bước vào mùa công bố KQKD quý 3. Các yếu tố có thể đóng vai trò dẫn dắt trong tháng 10 gồm: (i) kết quả nâng hạng thị trường của FTSE Russell (ngày 8/10), (ii) hoạt động IPO/niêm yết (TCBS, VPBS, VPS, HPA, GEX Infrastructure…), và (iii) số liệu GDP & KQKD quý 3.